Trúc Lâm Tam Tổ

Trúc Lâm Tam Tổ là ba vị tổ thiền-phái Trúc Lâm.

Phật hoàng Trần Nhân Tông vẫn muôn thuở ung dung lạc đạo giữa Đời và Đạo, trở thành một hình tượng tiêu biểu độc đáo nhất trong lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng. Sự ung dung đó hiển thị rõ ràng trong từng hình tướng nhục thể của ngài mà lớp lớp hậu thế dày công tạc dựng.
 

Khi các nhà nghiên cứu, các nhà văn hóa vẫn chưa thống nhất về dung mạo của Ngài, trong khi họa sĩ đang cặm cụi sáng tác những mẫu tượng về một Trần Nhân Tông trong trí tưởng tượng vừa là một đấng quân vương vừa là một thiền sư thì Phúc Minh đi một lối đi riêng, tạo dựng tướng mạo Phật Hoàng Trần Nhân Tông nói riêng và Thiền Sư Pháp Loa, Thiền Sư Huyền Quang qua Di tích khảo cổ, Tài liệu cổ, nhân chủng học và truyền thuyết dân gian. 

Bộ tôn tượng Tam Tổ Trúc Lâm đang an vị tại chùa
Bộ tôn tượng Tam Tổ Trúc Lâm đang an vị tại chùa
 
Mặc dù vậy vẫn còn một câu hỏi đặt ra: Là thiền tông vốn là thuộc phái đại thừa nhưng tại sao ngài lại mặc áo tiểu thừa trong tháp cổ tại Yên Tử? Phải chăng bản thân ngài phải mặc áo tiểu thừa là để ngoại giao với Chiêm Thành? Chiêm Thành theo dòng tiểu thừa và dưới thời đại của ngài đã có nhiều mối quan hệ ngoại giao đặc biệt với Chiêm Thành, mà nổi tiếng nhất là cuộc “hôn phối” giữa công chúa Huyền Trân và Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý.
 
Việc tạc tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông nói riêng và Thiền Sư Pháp Loa, Thiền Sư Huyền Quang là một hành trình tìm về lịch sử, dân gian, nhân chủng học, khảo cổ,… của đất nước. Đây là điều rất quan trọng, lớn lao nhưng được “bỏ quên” trong tất cả khâu kiểm duyệt tượng của Việt Nam.
 
Một công trình nghệ thuật văn hoá lớn luôn luôn đòi hỏi sự cẩn trọng đến từng chi tiết nhỏ. Chúng ta đã có bài học về tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ, về tượng Lý Thái Tổ ở Hồ Gươm. Không lẽ đến tượng Trần Nhân Tông chúng ta lại định học thêm một bài học mới?
 

Dòng Thiền Trúc Lâm do thượng hoàng-thiền sư Trần Nhân Tông (1258-1308), pháp-danh Điều-ngự Giác-hoàng khởi lập. Thượng hoàng được thờ là “Tổ Thứ Nhất”. “Tổ Thứ Hai” là thiền-sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương (1284-1330), soạn-giả bộ sách Thạch thất mị ngữ (石室寐語). “Tổ Thứ Ba” là thiền-sư Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254-1334).

Ba vị tổ của thiền Phái Trúc lâm đều đi tu và Thành đạo ở Chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang – Vị Tổ thứ nhất: Thượng hoàng Trần Nhân Tông, Pháp danh: Điệu Ngự Giác Hoàng là Thầy của Vị Tổ thứ 2 là Pháp Loa và Pháp Loa là Thây của vị tổ thứ 3: Thiền sư Huyền Quang. Sau Khi đi tu, thành đạo thì vị tổ của thiền phái Trúc lâm về Chùa Yên Tử để trụ trì. Còn vị Tổ thứ 2 về Chùa Quỳnh Lâm Quảng Ninh, Vị tổ thứ 3 về Chùa Côn Sơn Hải Dương. Thế nên Người ta mới có câu:

“Ai qua Côn Sơn, Yên Tử, Quỳnh lâm. Vĩnh Nghiêm chưa đến thiền tâm chưa đành.”

Bộ tôn tượng Tam Tổ Trúc Lâm được Phúc Minh tạo tác và an vị tại chùa Long Hưng – chi nhánh chùa Vĩnh Nghiêm HCM tại Hà Nội.

Tượng Tổ Pháp Loa và Huyền Quang trong Tam tổ Trúc Lâm cao 1.5 mét
Tượng Tổ Pháp Loa và Huyền Quang trong Tam tổ Trúc Lâm cao 1.5 mét
Phóng tác ra chất liệu gỗ và Tinh chỉnh khuôn Diện tôn tượng Tổ Pháp Loa
Phóng tác ra chất liệu gỗ và Tinh chỉnh khuôn Diện tôn tượng Tổ Pháp Loa

Quá trình tạo hình tôn tượng dựa trên phương pháp:

  1.  Nguyên cứu về tướng mạo của các tổ thông qua Tài liệu cổ, đường nét trung bình khuôn mặt của 1 nhánh họ Trần lưu lạc về vùng biển miền Trung Nam bộ, tượng cổ tại Yên Tử và quan niệm về đế Vương – Quan.
  2. Nặn đất sét khuôn mặt và thân hình
  3. Điều chỉnh trên phần mềm 3D
  4. Phóng tác ra chất liệu gỗ và tinh chỉnh
Nặn đất sét khuôn Diện tôn tượng Tổ Pháp Loa
Nặn đất sét khuôn Diện tôn tượng Tổ Pháp Loa
Điều chỉnh lại khuôn diện đất sét của Phật Hoàng Trần Nhân Tông trên phần mềm 3D
Điều chỉnh lại khuôn diện đất sét của Phật Hoàng Trần Nhân Tông trên phần mềm 3D
Phóng tác ra chất liệu gỗ và Tinh chỉnh khuôn Diện tôn tượng Tổ Huyền Quang
Phóng tác ra chất liệu gỗ và Tinh chỉnh khuôn Diện tôn tượng Tổ Huyền Quang